Các tế bào vú bình thường có thể trở thành ung thư do những thay đổi đột biến trong gene hoặc do một số yếu tố nguy cơ khác. Vậy ung thư vú dễ xảy ra ở những phụ nữ nào?
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, có nhiều yếu tố nguy cơ ung thư vú, ngoài một số yếu tố có thể kiểm soát được liên quan đến lối sống như chế độ ăn uống và hoạt động thể chất, quyết định sinh con và dùng thuốc có chứa hormone… thì có những yếu tố không thể kiểm soát được như tuổi tác hoặc thừa hưởng một số thay đổi gene nhất định.
1. Phụ nữ trên 55 tuổi
Khi phụ nữ già đi, nguy cơ mắc ung thư vú của họ tăng lên. Hầu hết ung thư vú được phát hiện ở phụ nữ từ 55 tuổi trở lên.
2. Phụ nữ thừa hưởng di truyền một số thay đổi gene
Khoảng 5% đến 10% các trường hợp ung thư vú được cho là do di truyền, nghĩa là chúng là kết quả trực tiếp từ những thay đổi gene (đột biến) được truyền từ cha mẹ.
Nguyên nhân phổ biến nhất gây ra ung thư vú di truyền là đột biến di truyền ở gene BRCA1 hoặc BRCA2. Trong các tế bào bình thường, các gene này giúp tạo ra các protein sửa chữa DNA bị hư hỏng. Các phiên bản đột biến của các gene này có thể dẫn đến sự phát triển bất thường của tế bào dẫn đến ung thư.
3. Trường hợp có mẹ, chị gái hoặc con gái mắc ung thư vú
Những phụ nữ có họ hàng gần mắc ung thư vú có nguy cơ cao hơn bao gồm:
· Có người thân cấp độ một (mẹ, chị gái hoặc con gái) mắc ung thư vú gần như làm tăng gấp đôi nguy cơ của phụ nữ. Có 2 người thân cấp độ một làm tăng nguy cơ của người đó khoảng 3 lần.
· Những phụ nữ có cha hoặc anh trai mắc ung thư vú cũng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.
Ung thư vú có thể do những thay đổi đột biến trong gene hoặc do một số yếu tố nguy cơ khác.
4. Bản thân phụ nữ đã mắc bệnh ung thư vú
Theo nhận định của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, một phụ nữ bị ung thư ở một bên vú có nguy cơ cao hơn mắc ung thư mới ở bên vú còn lại hoặc ở một phần khác của cùng một bên vú. Điều này khác với sự tái phát hoặc quay trở lại của ung thư đầu tiên. Mặc dù nguy cơ này nhìn chung là thấp nhưng nó cao hơn đối với những phụ nữ trẻ bị ung thư vú.
5. Nguy cơ khác nhau tùy theo chủng tộc và dân tộc
Nhìn chung, phụ nữ da trắng có khả năng mắc ung thư vú cao hơn một chút so với phụ nữ Mỹ gốc Phi, mặc dù khoảng cách giữa họ đã thu hẹp trong những năm gần đây. Ở phụ nữ dưới 40 tuổi, ung thư vú phổ biến hơn ở phụ nữ Mỹ gốc Phi. Phụ nữ Mỹ gốc Phi cũng có khả năng tử vong vì ung thư vú cao hơn ở mọi lứa tuổi. Phụ nữ châu Á, gốc Tây Ban Nha và người Mỹ bản địa có nguy cơ mắc và tử vong vì ung thư vú thấp hơn. Nguy cơ ở các nhóm khác nhau cũng khác nhau tùy theo loại ung thư vú
6. Phụ nữ cao dễ mắc hơn phụ nữ thấp
Nhiều nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, phụ nữ cao có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn phụ nữ thấp. Lý do cho điều này không thực sự rõ ràng nhưng có thể liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển sớm như dinh dưỡng trong giai đoạn đầu đời cũng như các yếu tố về hormone hoặc di truyền.
7. Phụ nữ có mô vú dày đặc
Vú được tạo thành từ mô mỡ, mô xơ và mô tuyến. Vú trông đặc hơn trên ảnh chụp quang tuyến vú khi chúng có nhiều mô tuyến và mô xơ hơn và ít mô mỡ hơn. Phụ nữ có vú đặc trên ảnh chụp quang tuyến vú có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn so với phụ nữ có mật độ vú trung bình. Thật không may, mô vú đặc cũng có thể khiến việc phát hiện ung thư trên ảnh chụp quang tuyến vú trở nên khó khăn hơn.
Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến mật độ vú như tuổi tác, tình trạng mãn kinh, việc sử dụng một số loại thuốc (bao gồm liệu pháp hormone mãn kinh), thai kỳ và di truyền.
Trong một trong nghiên cứu lớn gần đây của Hiệp hội X quang Bắc Mỹ (RSNA) đã xác định nguy cơ ung thư ở phụ nữ có vú dày, là vú có tỷ lệ mô tuyến cao hơn so với mô mỡ.
Theo các nhà nghiên cứu, ung thư vú có thể khó phát hiện trên phim chụp nhũ ảnh vú dày do sự giống nhau về hình dạng của mô vú dày và khối u ung thư. Cả hai đều có màu trắng trên hình ảnh. Vú dày cũng liên quan đến nguy cơ ung thư vú tăng cao. Vấn đề càng phức tạp hơn khi hai phụ nữ có mật độ mô vú tương tự nhau có thể có sự khác biệt đáng kể về kiểu mô.
8. Phụ nữ được chẩn đoán mắc một số tình trạng lành tính ở vú
Phụ nữ được chẩn đoán mắc một số loại bệnh lành tính (không phải ung thư) ở vú có thể có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.
Các bác sĩ thường chia các bệnh lành tính ở vú thành các nhóm khác nhau tùy thuộc vào cách chúng ảnh hưởng đến nguy cơ này bao gồm: Tổn thương không tăng sinh, tổn thương tăng sinh không có dị sản (bất thường tế bào), tổn thương tăng sinh với chứng loạn sản.
9. Phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt sớm
Phụ nữ có nhiều chu kỳ kinh nguyệt hơn vì họ bắt đầu có kinh nguyệt sớm (đặc biệt là trước 12 tuổi) có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút. Nguy cơ gia tăng có thể là do tiếp xúc lâu hơn với hormone estrogen và progesterone trong suốt cuộc đời.
10. Phụ nữ mãn kinh muộn
Phụ nữ có nhiều chu kỳ kinh nguyệt hơn vì họ mãn kinh muộn hơn (thường là sau 55 tuổi) có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút. Nguy cơ tăng có thể là do họ tiếp xúc lâu hơn với hormone estrogen và progesterone trong suốt cuộc đời.
Phụ nữ có nguy cơ cao nên lưu ý thực hiện các biện pháp giảm nguy cơ hoặc phát hiện sớm ung thư vú.
11. Phụ nữ tiếp xúc với diethylstilbestrol (DES)
Từ những năm 1940 đến đầu những năm 1970, một số phụ nữ mang thai đã được dùng một loại thuốc giống estrogen có tên là DES vì người ta cho rằng nó có thể làm giảm nguy cơ mất con (sảy thai). Những phụ nữ này có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút. Những phụ nữ có mẹ dùng DES trong khi mang thai cũng có thể có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút.
12. Phụ nữ điều trị xạ trị khi còn trẻ
Phụ nữ được điều trị bằng xạ trị ở ngực để điều trị ung thư khác (như u lympho Hodgkin hoặc không Hodgkin) khi còn trẻ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn đáng kể. Nguy cơ này phụ thuộc vào độ tuổi khi họ được xạ trị. Nguy cơ cao nhất đối với những phụ nữ được xạ trị khi còn là thiếu niên hoặc thanh niên khi ngực vẫn đang phát triển. Xạ trị ở phụ nữ lớn tuổi (sau khoảng 40 đến 45 tuổi) dường như không làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cho rằng, mặc dù có nhiều yếu tố nguy cơ ung thư vú nằm ngoài tầm kiểm soát nhưng các yếu tố nguy cơ khác có thể thay đổi được bao gồm thay đổi lối sống như vận động thể chất và duy trì cân nặng khỏe mạnh có thể làm giảm nguy cơ mắc căn bệnh này.
Đối với phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú cao (ví dụ có tiền sử gia đình mắc ung thư vú, đột biến gene di truyền…) thì có một số điều nên cân nhắc để giúp giảm nguy cơ mắc ung thư vú hoặc giúp phát hiện sớm) bao gồm: Tư vấn di truyền và xét nghiệm nguy cơ ung thư vú (nếu chưa thực hiện); Thuốc làm giảm nguy cơ ung thư vú; Phẫu thuật phòng ngừa; Quan sát chặt chẽ để phát hiện các dấu hiệu sớm của ung thư vú.
Theo suckhoedoisong.vn